Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh sáng lập ra triều Nguyễn. Lúc này, đất nước sau mấy chục năm chiến tranh phần lớn bị bỏ hoang, nhiều nơi nhất là miền Bắc xảy ra tình trạng dân bỏ làng phiêu tán đi những nơi khác để kiếm sống.
Vì vậy, song song với việc dùng biện pháp quân sự và hành chính để đàn áp và khống chế nhân dân, các vua triều Nguyễn đều đặc biệt chú trọng đến việc khẩn hoang, coi đó là một biện pháp tích cực nhất đưa dân vào công việc sản xuất, giải quyết được nạn dân lưu tán, giảm bớt mâu thuẫn xã hội, đồng thời lại có thể tăng thêm diện tích trồng trọt và tăng thêm thu nhập cho nhà nước.
Trong việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, triều đình Nguyễn đặc biệt chú ý đến Nam Bộ. Đó là vì nơi đây còn nhiều đất hoang có thể khai phá để trồng trọt. Từ 1802 đến 1855, triều Nguyễn đã liên tiếp ban hành 25 quyết định về khai hoang trong đó có 16 quyết định áp dụng ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành và 6 đối với toàn quốc.
Để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, triều Nguyễn đã dùng nhiều biện pháp khác nhau. Bên cạnh khuyến khích nhân dân tự do khẩn hoang, lập làng mới, các vua Nguyễn còn cắt cử quan lại đôn đốc ra sức tổ chức cho dân chúng, binh lính, tù phạm khai hoang qua hình thức đồn điền.
Đồn điền là hình thức khai hoang kết hợp kinh tế với quốc phòng. Địa điểm lập đồn điền thỏa mãn hai điều kiện: nơi xung yếu về quân sự và có tiềm năng đất đai để khai hoang. Có thể lý do yêu cầu về phát triển sản xuất và yêu cầu về chính trị, quân sự ở vùng biên giới trong đối nội và cả đối ngoại. Trong đó yêu cầu về kinh tế là nhân tố lâu dài và cơ bản nhất.
Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã cho lập đồn điền ở cả bốn phủ thuộc Gia Định thành: phủ Tân Bình (tức trấn Phiên An), phủ Phước Long (tức trấn Biên Hòa), phủ Định Viễn (tức trấn Vĩnh Thanh), phủ Kiến An (tức trấn Định Tường), có nghĩa là trên toàn vùng Đồng Nai – Gia Định. Sang triều Minh Mạng, đồn điền còn phát triển hơn triều Gia Long, và được lập ở nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng biên giới như Hà Tiên, Trấn Tây Thành, hải đảo Côn Lôn. Dưới triều Thiệu Trị không biết vì lẽ gì việc lập đồn điền bị đình chỉ, nhưng sang triều Tự Đức, việc lập đồn điền lại được chú trọng. Nguyễn tri Phương được giao nhiệm vụ mộ dân lập đồn điền và chỉ trong một thời gian rất ngắn (khoảng 1 năm), 25 cơ đồn điền, mỗi cơ khoảng trên 300 người, được lập lên trên toàn lãnh thổ Nam Bộ.
Bản đồ Nam Kỳ lục tỉnh triều Nguyễn
Bên cạnh việc khuyến khích khẩn hoang lập làng mới, lập đồn điền, tổ chức sản xuất, các vua Nguyễn cũng đã chú ý đến việc tổ chức quản lý ruộng đất nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước, trong đó có đồn điền ở Nam Bộ. Vì thế, năm 1836 Minh Mạng thực hiện một số quyết định lớn: đo lại toàn bộ ruộng đất Nam Kỳ và lập sổ địa bạ các làng xã ở đây. Kế hoạch được triển khai nhanh và đạt kết quả rất tốt. Điều đáng chú ý trong địa bạ Nam Kỳ (1836) là ngoài những thông tin chủ yếu về tình hình ruộng đất, còn có cước chú thêm nguồn gốc các loại ruộng đất. Như, ở mục tư điền, tư thổ địa bạ không chỉ ghi tên chủ sở hữu mà còn ghi rõ tên chủ sở hữu trước đó. Hay ở mục công điền, công thổ; công thổ viên địa bạ cho biết thêm một số trường hợp nguyên trước là thuộc sở hữu tư nhân nhưng do chủ sở hữu ruộng đất đã chết mà không có người thừa tự nên trở thành ruộng đất công. Ngoài ra sự thay đổi loại hình ruộng đất (ruộng thành đất, đất thành ruộng, từ trồng lúa sang trồng màu…) cũng được ghi chú rõ ràng.
Nhìn lại hơn nửa thế kỷ thực hiện chế độ đồn điền của nhà Nguyễn ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỷ XIX đã mang lại những kết quả tích cực trên nhiều mặt, thỏa mãn được nhiều mục tiêu mà các vua đầu triều Nguyễn mong muốn thực hiện: Nam Kỳ đất rộng, người thưa và là khu vực chủ yếu để phát triển chế độ đồn điền. Điều này có 4 điều lợi: Mở rộng diện tích canh tác ruộng đất, khai phá đất hoang, tăng sản lượng lương thực; tăng thêm thu nhập của nhà nước; đảm bảo quyền thống trị của nhà nước trên vùng đất mới đồng thời đảm bảo việc trị an ở địa phương; giải quyết một phần quân lương vùng biên giới và lương thực cho tù phạm.
Mặt khác, thực hiện chế độ đồn điền ở thời kỳ này còn cho phép nhà Nguyễn giải quyết được những vấn đề bức xúc của xã hội như vấn đề dân nghèo không ruộng đất, phiêu tán, góp phần giảm bớt những mâu thuẫn xã hội vốn đã gay gắt từ các thế kỷ trước. Ưu điểm của chính sách này là có thể huy động được đủ mọi loại người, dù không có một tấc sắt trong tay, đều có thể lập nghiệp được. Nhà nước sẽ cấp, hay nói đúng hơn, cho vay hoặc cho thuê trước các loại trâu bò nông cụ, lúa giống và các phương tiện khác. Như thế những người không có đất trở thành có đất, ruộng đồng trong nước phát triển về số lượng và khoản thuế thu cho triều đình tăng tiến không ngừng. Qua công cuộc tổ chức và khuyến khích khẩn hoang, rõ ràng triều Nguyễn có sự quan tâm nhất định đến việc phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp thông qua chính sách đẩy mạnh khẩn hoang chứ không phải là ngược lại như một số nhà sử học trước đây đã nói.
Các vua Nguyễn đã biết lựa chọn và tổ chức các hình thức khẩn hoang phù hợp với vùng đất mới, với điều kiện địa lý tự nhiên và lịch sử xã hội của vùng đất này, trong đó hình thức khẩn hoang lập đồn điền đóng vai trò quan trọng. Bởi vì, mặc dù đã được khai phá từ mấy thế kỷ trước nhưng đến đầu thế kỷ XIX vùng đất Đồng Nai – Gia Định vẫn còn một diện tích đáng kể chưa được khai phá. Đó là những vùng đất hoang hóa, sình lầy, lau sậy, đất nhiễm mặn, vùng đất biên giới hẻo lánh… Việc lựa chọn và tổ chức hình thức khẩn hoang lập đồn điền cho phép các vua Nguyễn chủ động đẩy nhanh công cuộc khai phá, khi có trong tay lực lượng binh lính, tù binh, phạm nhân, kể cả dân lưu tán; đồng thời qua đó nhanh chóng thiết lập bộ máy hành chính, xác lập chủ quyền quốc gia lãnh thổ đối với vùng đất mới khai phá, vùng biên giới. Như vậy nhà Nguyễn trên thực tế đã từng bước hoàn tất và củng cố nền thống nhất quốc gia.