Trong cuộc sống, chúng ta thường sử dụng nhiều từ ngữ mà không hiểu rõ nghĩa gốc của chúng. “Bếp núc” là một ví dụ điển hình. Ai cũng biết “bếp” là nơi nấu nướng, nhưng “núc” là gì thì không phải ai cũng rõ.
Theo Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, “núc” (danh từ) có nghĩa là “đồ đắp bằng đất thường làm ra ba hòn, có thể bắc nồi nấu ăn”. Nói cách khác, “núc” chính là ông đầu rau, ông táo dùng để nấu bếp. Như vậy, “bếp núc” là từ ghép đẳng lập, nghĩa của từ ghép trùng với nghĩa của một thành tố cấu tạo nên nó.
“Bếp núc” không phải là trường hợp duy nhất. Có rất nhiều từ ngữ khác trong tiếng Việt mà chúng ta sử dụng hàng ngày nhưng chưa hiểu rõ nghĩa. Ví dụ như “chợ búa”.
Có ý kiến cho rằng “búa” là âm xưa của chữ [铺] (phố), nghĩa là cửa hàng, nơi buôn bán. Vậy nên “chợ búa” là nơi diễn ra hoạt động mua bán.
Một ví dụ khác là từ “gậy gộc”. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây cũng là từ ghép đẳng lập, cả “gậy” và “gộc” đều có nghĩa độc lập. “Gậy” là đoạn tre, gỗ hoặc sắt dùng làm vũ khí hay công cụ. “Gộc” là phần gốc rễ của thân cây sau khi chặt, thường to, ngắn và thô sơ hơn gậy.
Cuối cùng là từ “hỏi han”. Theo Đại Nam quấc âm tự vị, “han” có nghĩa là “hỏi tới”, “nói tới”. Vậy “hỏi han” là hỏi thăm, nói chuyện và tìm hiểu thông tin.