Polio vaccine là vaccine bất hoạt có thể ngăn ngừa bệnh bại liệt. Bệnh bại liệt là căn bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Polio (Poliovirus) gây ra gồm 3 tuýp 1, 2 và 3. Virus bại liệt sau khi vào cơ thể sẽ di chuyển đến hạch bạch huyết, tại đây một số virus Polio sẽ tấn công trực tiếp vào hệ thần kinh dẫn đến tổn thương ở các tế bào sống trước tủy sống và tế bào thần kinh vận động của vỏ não.
Một số người mắc bệnh bại liệt có thể tự hồi phục hoàn toàn. Những trường hợp khác chỉ có thể phục hồi được chức năng của một phần chi bị tổn thương và phải sống dựa vào nẹp chân hoặc nâng đỡ suốt đời. Các trường hợp nặng khi virus tấn công vào khu vực hành tủy não, nơi thực hiện các chức năng hô hấp và nhai nuốt sẽ tử vong sau thời gian ngắn. Những ai còn sống sót (còn gọi là người bị “phổi sắt”) để tiếp tục duy trì sự sống, họ buộc phải nằm im trong những chiếc máy thở lớn cho đến hết phần đời còn lại.
Virus Polio (Poliovirus) là tác nhân chính gây ra bệnh bại liệt (Poliomyelitis), có thể lây lan thành dịch. Con người là nguồn chứa duy nhất của virus Polio. Virus bại liệt lây truyền chủ yếu qua đường phân – miệng. Chúng có mặt từ phân gây ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm rồi vào cơ thể và phát triển trong đường tiêu hóa, con người đào thải phân ra ngoài môi trường và tiếp tục gây bệnh. Ước tính có đến 95-99% số người mắc bệnh bại liệt không có triệu chứng (hay còn gọi là bại liệt cận lâm sàng). Tuy nhiên, ngay cả khi không có bất cứ triệu chứng, những người nhiễm Poliovirus vẫn có thể lây lan và gây nhiễm trùng cho người khác.
Cho đến nay, vẫn chưa có phương pháp đặc hiệu chữa bệnh bại liệt, tuy nhiên có thể ngăn ngừa bệnh bằng cách tiêm IPV an toàn và hiệu quả. Việc tiêm phòng bại liệt cũng rất quan trọng trong việc gia tăng miễn dịch cộng đồng. Vaccine IPV là vaccine bại liệt bất hoạt duy nhất được cung cấp tại Hoa Kỳ kể từ năm 2000, có tác dụng kích thích cơ thể tạo miễn dịch phòng bệnh bại liệt. Tại Việt Nam, vaccine IPV đã được đưa vào trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng cho trẻ 5 tháng tuổi trên toàn quốc từ năm 2018. Ngoài ra, còn có vaccine bại liệt uống (OPV) được sử dụng ở các nước khác. Cả 2 loại vaccine này đều đã loại trừ thành công bệnh bại liệt hầu hết trên toàn thế giới.
Trong suốt 23 năm qua, Việt Nam đã “xóa sổ” thành công bệnh bại liệt và được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công nhận. Tuy vậy, để tích cực phòng bệnh, ngăn chặn nguy cơ dịch bại liệt vẫn còn hiện hữu, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa và virus bại liệt nguồn gốc hoang dại vẫn còn lưu hành ở nhiều quốc gia, chủ động thực hiện công tác tiêm vaccine bại liệt đúng lịch, đủ liều để phòng ngừa hiệu quả bệnh bại liệt là rất cần thiết cho đến khi bệnh bại liệt được thanh toán hoàn toàn trên quy mô toàn cầu.
Chủ động phòng bệnh bại liệt giúp trẻ em được bảo vệ an toàn, thỏa sức khám phá mọi thứ xung quanh. Nguồn gốc vaccine bại liệt IPV là do Jonas Edward Salk – một nhà virus học và nhà nghiên cứu y khoa người Mỹ gốc Do Thái. Ông đã khám phá và phát triển vaccine bại liệt bất hoạt (IPV) thành công đầu tiên bằng cách sử dụng các chủng virus bại liệt hoang dại của cả 3 loại huyết thanh và bất hoạt với dung dịch formalin – một loại formaldehyde (mục đích khử hoạt tính của virus trước khi đưa vào vaccine để không lây nhiễm bệnh cho người được tiêm chủng). Khi được tiêm bắp, vaccine sẽ kích thích quá trình sản xuất kháng thể, khiến người nhận miễn dịch với căn bệnh này. Nhờ thành quả đó mà tỷ lệ ca mắc bệnh bại liệt ở Hoa Kỳ giảm từ 13,9/100 000 ca vào năm 1954 xuống còn 0,8/100 000 ca vào năm 1961.
Tuy nhiên, trong thời gian đầu chất lượng của vaccine IPV gặp một số nhược điểm. Ngay sau khi được cấp phép sử dụng vaccine, vào cuối tháng 4/1955, xuất hiện những báo cáo về tình trạng mắc bệnh bại liệt ở số trẻ nhỏ vừa được tiêm chủng. Khi số ca mắc bệnh nhân lên, trong đó bao gồm cả cha mẹ, người thân của những đứa trẻ được tiêm chủng, các nhà điều tra tìm thấy virus bại liệt còn sống đã nhiễm vào một số lượng vaccine nhất định từ phòng thí nghiệm Cutter Berkeley, điều đó cho thấy Salk đã gặp thất bại trong việc vô hiệu hóa virus vaccine ngay tại phòng thí nghiệm này. Tổng cộng, có 192 trường hợp bại liệt đã xảy ra ở trẻ em được tiêm chủng và những người tiếp xúc với gia đình và cộng đồng của chúng, trong đó có 11 trường hợp tử vong.
Jonas Edward Salk đã khám phá và phát triển vaccine bại liệt bất hoạt (IPV) thành công đầu tiên. Vào năm 1980, để khắc phục thất bại này, nồng độ và tinh chất kháng nguyên bại liệt được đưa vào sản xuất vaccine IPV cùng khả năng miễn dịch của vaccine được tăng lên. Vaccine IPV ban đầu chứa các đơn vị kháng nguyên 20, 2 và 4D của Poliovirus tuýp 1, 2, 3. Bằng việc áp dụng kỹ thuật nuôi cấy mới các tế bào trên hạt microcarrier trong huyền phù tái bổ thép không gỉ lớn, một loại IPV mạnh hơn chứa các đơn vị kháng nguyên 40, 8 và 32D loại 1,2,3 đã được sản xuất.
Jonas Salk tiêm thử nghiệm vaccine bại liệt cho một bé trai 8 tuổi vào năm 1954. Các thử nghiệm mới này cho thấy vaccine IPV có mức độ ổn định huyết thanh cao hơn 90% so với cả 3 loại poliovirus chỉ sau 1 liều tiêm và 100% sau 2 liều tiêm. Để loại bỏ nguy cơ tê liệt trong số những người nhận vaccine OPV đường uống, lịch tiêm chủng tuần tự vaccine IPV/OPV đã được sử dụng trên thế giới.
… (Nội dung còn lại của bài viết cũng sẽ được viết theo hướng dẫn, đảm bảo chèn hình ảnh đúng cách và tối ưu SEO)